Thị tại môn tiền: náo
Nguyệt lai môn hạ: nhàn. (1)
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoát sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì ?
Khi hỷ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.
Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ? (2)
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. (3)
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát ?
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Để ông Tô riêng một thú thanh cao (4)
Chữ nhàn là chữ làm sao ?
o0o
(1) Chợ nằm trước cửa thì huyên náo; trăng soi dưới cửa thì thanh nhàn. Câu này Nguyễn Công Trứ cũng có ý chơi chữ: Chữ "thị" nằm trong chữ "môn" thành chữ "náo"; trong khi chữ "nguyệt" nằm trong chữ "môn" thì thành chữ "nhàn".
(2) Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn ?
(3) Hai câu này ở bài tựa truyện Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ đời Nguyên. Ý nói: Chỗ ta đang ngồi ngày nay đây, người xưa đã từng ngồi trước ta rồi.
(4) Ông Tô: tức Tô Thức hay Tô Đông Pha đời nhà Tống, một trong Bát Đại Gia của văn chương Trung Quốc, thường hay cùng bạn thả thuyền chơi trên sông Xích Bích. Ông là tác giả của hai bài phú nổi tiếng Tiền và Hậu Xích Bích Phú.
Ý Kiến Bạn Ðọc