1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29

Bùi Ngọc Tấn
một bao Nhị Thanh. Trả như vậy là phẫi chăng. Không rẻ, không đắt. Dạo ấy Giang nhiều thuốc. Thuốc chác được, không nghiện, nhưng cũng phì phèo. Có ken là có tất cả. Nếu chè là dollar thì ken là sterling hay mark. Giang đã đưa được mảnh đuya-ra từ buồng lâm sản về buồng toán mộc. Giang bảo hắn: “Em đánh gập nó để quấn được vào người. Mảnh đuya-ra dày lắm. Hình như là một miếng cánh máy bay. Mai em bồng ra chỗ làm. Lúc uốn nhiều thằng biết quá. Em chỉ sợ có thằng bẩm, bị thu mất thì “điếng”.
Bồng vào. Bồng ra. Thật đến khổ. Rồi cưa. Mảnh đuya-ra quá dày. Phải bóc vát đi. Chỗ bóc ấy cũng làm được một cái lược nữa. Tóm lại toàn những việc cần đến sự kiên nhẫn của những người tù khổ sai. Thật may, chính họ là những người như thế. “Mảnh máy bay ấy quá rắn. Gia công cực khó”. “Em cắt xong rồi. Giũa cứ lỳ ra. Trời, chỗ mấy giọt sáp làm mới chết người chứ. Mai em đánh bóng, rồi cưa răng”. “Em đánh bóng rồi. Hết hai tờ giấy nháp. Tưởng đánh bóng nhanh, hoá ra lâu quá. Chưa cưa được. Cưa xong còn phải đánh lại. Bóng lắm. Soi gương được. Đẹp lắm. Đuya-ra sáng chói mắt”. “Em cưa rồi. Đuya-ra vừa rắn vừa giòn. Phải cẩn thận từng tý một. Gãy một răng là thôi đấy. Thay mấy lưỡi cưa. Em chác một nửa miếng to cho thằng. Lập ba-tai rồi. Con ấy thích lắm. Coi như chỉ mất một biêu mà được nửa mảnh”. “Em chưa thấy cái lược nào như thế. Đánh bóng lại rồi. Công nhận hắn Ninh hắn ấy vẽ cho anh cái mẫu mô-đen thật đấy. Em đã định mô-đi-phê khắc một dây hoa chìm dọc sống lược, nhưng lại thôi. Để trơn đẹp hơn”.
Suốt một tuần, cứ chiều chiều đi làm về trại hai anh em gạp nhau trước lúc khoá buồng, Giang lại thông báo cho hắn diễn biến của quá trình làm lược, mà chẳng thấy lược đâu.
Cho đến một hôm Giang bảo:
- Còn đổ nhựa nữa là xong. Em phải kiếm bằng được cái nhựa màu đỏ tươi này đổ vào mắt con sư tử. Anh xem màu nào đẹp?.
Giang chìa ra một mẩu cán bàn chải đánh răng và một cái cúc áo nhựa bé xíu chắc là ở một cái áo hoa trẻ con nào, như áo con Thương, con Nguyệt nhà hắn. Cũng màu đỏ tuy sắc độ có chênh nhau một tý. Hôm Giang hẹn sẽ mang lược về, gặp Giang sau buổi làm chiều, mỗi người một hàng trước cổng trại, trước mặt ông Quân, hắn nhìn Giang dò hỏi, nhưng Giang như không nom thấy hắn. Hay có trục trặc gì. Cho đến khi vào trại, lấy nước xong, Giang mới sang, bám sàn nhảy lên chỗ hắn:
- Pít-xơ-mô!
Đó là lời chào của Giang trong những lúc phấn khởi. Kể cả chào gặp gỡ, chào từ biệt. Nó còn là lời dặn bí mật nữa. Thực ra pixmô theo tiếng Nga có nghĩa là bức thư, nhưng Giang dùng với nghĩa như vậy Giang nằm sấp xuống cạnh hắn, quay đầu ra cửa sổ. Chỗ ấy nhìn ra bờ rào cao, không ai đi lại. Chỉ sáng sáng có con chim báo bình minh kêu lên như tiếng lợn bị chọc tiết vút qua phía ngoài hàng rào thôi. Giang rút từ bụng ra cái lược. Hắn hoa mắt trước miếng kim loại đã được gia công sáng loá ấy. Và vồ lấy. Dày. Nặng. Như một thứ hàng mỹ nghệ đẹp nhất. Không ai có thể chê nó một điều gì. Đạt tới trình độ tuyệt mỹ. Còn hơn cả hàng mỹ nghệ. Đó là một tác phẩm nghệ thuật. Cái bản vẽ trên giấy không thể so sánh được với tác phẩm của Giang. Nó sống. Nó có hồn. Có chiều sâu. Có ánh lửa của ngọn nến. Có bóng tối mà con mắt đỏ độc nhất của con sư tử dữ dội và buồn rầu nhìn vào đăm đăm bất động. Phần sống lược dày trên mức bình thường, không uốn cong mà thẳng như một đường kẻ. Bóng. Bóng lừ. Bóng đến mức không tin được. Càng về phía đầu răng càng mỏng đi. Những chiếc răng đều tăm tắp. Hắn gại thử răng lược. Kêu như chuông ngân nga. Già Đô cũng phải trầm trồ, xuýt xoa. Giang bảo:
- Phải làm giấu. Sợ mấy ông quản giáo thấy, xin. Không cho, họ tịch thu. Làm gì được họ. Anh chải thử xem răng có nhọn quá không. Có đau không? Không hở? Làm lược khó nhất là cái ấy. ăn da đầu, nhưng lại không đau.
Báu vật ấy hắn không dùng. Hắn cho vào đáy hòm. Sợ quản giáo biết, các ông ấy tịch thu. Sợ mất cắp. Sợ không gửi ra được cho Ngọc. Cái lược, cái điếu, quả là đẹp, dường như là tất cả cuộc sống của những người tù, được làm ra bằng lòng kiên nhẫn, ý chí, tình cảm và đôi tay của những nghệ nhân ra đến ngoài đời có thể trở thành lạc lõng, hoạc ít ra nó không hiểu được đúng mức. ít người hiểu được những gì người tù gửi gắm vào trong đó. Như cái điếu của Dần. Như cái lược của hắn.
Khi về nhà, nhìn thấy cái lược ấy, hắn như gặp lại người bạn cũ. Ngọc, con Thương vẫn dùng. Chải xong để trên nóc tủ, cái tủ nửa tủ nửa quan tài. Thế mà bỗng nhiên không cánh mà bay. Có thể những lần mẹ con xuống nhà gội đầu, nhà dưới họ biết. Hắn nghĩ đến lũ con gái ông Bượng. Chuyên ăn cắp guốc, dép..
Mất cái lược, hắn tiếc ngẩn ngơ. Cho đến hôm Giang về, Giang hỏi hắn:
- Cái lược còn không anh?
Giang cũng buồn khi biết cái lược Giang làm để hắn gửi về cho Ngọc đã mất.
Giang về, đến thăm hắn không chỉ một mình. Giang đi với bà Phê Đô Thớt. Hắn đang lúi húi dán túi, thì Giang hiện ra ở cửa, kêu to:
- Pít-xơ-mô!
Hắn vứt mỏ hàn, chạy ra. Hai anh em ôm chầm lấy nhau. Một cô gái trẻ đứng nép ngoài cửa, lí nhí “Em chào anh”. Giang bảo: “Bà Phê Đô Thớt đấy”. Rồi Giang cười sung sướng, dụi dụi đầu vào vai hắn.
Không. Lúc này hắn không quan tâm đến bà Phê Đô Thớt. Hắn không quan tâm đến một ai. Hắn chỉ biết một người bạn thân thiết quý mến của hắn vừa thoát khỏi tù ngục. Vừa trở về với cuộc sống con người. Một người bạn nhỏ, nhưng đau khổ lớn lao, sánh ngang với những người đau khổ nhất trên cuộc đời này. Một người bạn sinh ra để đau khổ. Để đi tù. Đi tù từ bé. Một người sa ngã đáng thương xót, khiến mỗi người phải tự hỏi mình đã làm gì cho những người như vậy vợi bớt khổ đau. Mình có trách nhiệm gì với sự đau khổ ấy. Một người bạn mà nhân cách sống trong tù thật đáng kính trọng. Đã cùng nhau chia sẻ đến giọt tận khổ cuối cùng. Và đã cùng nhau thoát nạn.
- Về bao giờ?
- Em về hôm qua. Cứ tưởng anh chưa được về.
- Anh về mấy tháng rồi!
- Bọn bọp ở Q. N, cả số chẵn, số lẻ đã ai được về đâu. Em tưởng đến đây gặp chị. Hoá ra gặp anh.
Giang cười sung sướng.
Đến lúc ấy hắn mới để ý đến bà Phê Đô Thớt. Hắn không ngờ bà Phê Đô Thớt đẹp thế. Như trong mơ. Cao vừa phải. Nở nang. Da trắng mịn. Trong tù Giang đã đưa cho hắn xem ảnh cô gái này. Cái hình cắt ra từ tấm ảnh chụp chung nào đó. Bé xíu. Chỉ thấy một khuôn mặt đầy đặn đang cười giữa một làn tóc xoã.
Len - tên thật của cô gái - chuyện với hắn như với một người trong nhà. (Hẳn là Giang đã nói về hắn với Len). Hắn hơi ái ngại cho Len. Vì khuôn mặt cô phúc hậu, đầy đặn và xinh đẹp. Đó là khuôn mặt của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc, yên ổn. Mà Giang thì sóng gió. Giang hồ. Dữ dội. Và cho đến bây giờ vẫn hoàn toàn là con số âm. Rồi hắn lại mong Len, chính Len, chính nhờ có len mà số phận Giang sẽ được đổi khác. Trong tù hắn đã nghe bao chuyện Giang kể. Giang không giấu hắn những chuyện chơi bời. Giang sống rất bụi. Có biết điều gì Giang chưa trải qua. ăn cắp. ăn trộm. Đánh nhau. Cở bạc. Trai gái. Có lần Giang ghé sát tai hắn, thì thầm, mặt đỏ lên vì xấu hổ:
Thằng Thông cháy ấy mà. Anh có biết không, mẹ nó bán chè chai. Em đã ngủ với mẹ nó. Hôm em, đến nhà, nó đi vắng. Thế là mẹ nó cứ kéo em lên giưởng.
Thông cháy cùng một bang với Giang. Đánh cờ rất giỏi. Khi sắp hết án sinh ốm. ốm thật vì lo. Cơm tù quý thế mà nó không ăn được. Mồm miệng đắng ngắt. Mất cả ngủ nữa. Càng gần đến ngày mãn án càng lo. Rộc đi. Quị hẳn. Đi khám, ông Chắn cho nó nghỉ thật, không phải “ấm vồ “(ốm vờ). Nó sợ không được về. Nó thấy nhiều bạn nó bị bắt, tập trung cải tạo lên đây. Nó sợ bị gí thêm cái bọp nữa thì tàn đời. Cái thằng này rất buồn cười. Một hôm quản giáo vào buồng gọi:
- Lê Đình Thông. Ra gặp mặt.
Quá phấn khởi, sung sướng, Thông cháy đang nằm, bật dậy kêu lên:
- Bố chờ con mãi!
Quản giáo giận tím mặt, quát:
- Anh bố con với ai thế? Anh kia?
Cả buồng cười rộ. Thông sợ hãi:
- Dạ, thưa ông, không, tôi quen miệng ạ. Xin ông tha lỗi cho ạ. Tôi đội ơn ông lắm ạ.
- Mẹ anh lên tiếp tế cho anh. Tôi vào báo cho anh, anh bố con với ai?
Ông giận dữ đi ra. Và tất nhiên Thông bị cắt gặp mặt, cắt tiếp tế. Nhưng Thông không chịu thua.
Ngay lập tức Thông phác một kế hoạch: Nhắn bà mẹ chè chai gửi đồ tiếp tế cho những người nhà bạn tù nhận hộ mỗi người một ít. Kết quả Thông cháy có đủ quả tắc tuy không được gặp mặt. Bạn bè của Giang là như vậy. Phương ngôn Pháp có câu “Hãy cho tôi biết bạn của anh, tôi sẽ nói anh là người thế nào”. Bởi thế hắn lo cho Len và lo cho Giang.
*
* *

Thỉnh thoảng Len lại cùng với Giang đến chơi nhà hắn. Len xin hắn dán túi và nhìn những bó túi ni-lông óng ả đã dán hoặc chưa dán nằm ở một góc nhà. Cái giống này nặng. Ba bố con phải xuống tận quá Bốt Vuông xe về. Hai chuyến xe cải tiến đầy. Dễ đến mấy tạ. ông Quỳnh nhận thế nào giao thế ấy. Nghĩa là giao theo bó. Mỗi bó một trăm túi. Thôi thì đủ loại. Có loại hình ống chỉ đưa một đường là thành túi Có loại thành từng miếng chữ nhật dài, phải gấp lại dán hai đường hai bên. Có loại là hai mảnh rời, phải dán ba đường. Loại to. Loại nhỏ. Loại đút vừa chiếc áo sơ-mi. Loại to bằng nửa cái bàn, ni-lông dày dán đến khổ. Mỗi đường dán dài gấp đôi. Mỏ hàn phải đưa rất chậm mới “ăn” vì ni-lông dày, cứng.
Hắn dán. Kiên nhẫn. Sung sướng. Được làm cho mình. Được làm góp phần với vợ, nuôi con... Dù đang là mùa hè, mồ hôi nhễ nhại. Thằng Hiệp, con Thương cũng dán thay cho bố. Chúng nó thích làm vì công việc này có tính chất kỹ thuật. Nhưng ngồi lâu, người mỏi nhừ. Dán nhiều, khoản giấy bóng kính hao lắm. Nó cong, nó giập, khô gãy vì mỏ hàn nóng bỏng cứ miết đi miết lại. Giấy bóng kính trở nên đục và giòn, bẻ gãy như bánh đa.
Ngọc mang về giấy can in. Cái này cũng được. Không tốt bằng giấy bóng kính, chóng hỏng và dán lâu hơn. nhưng không sao. Điểm chính là không phải bỏ tiền mua.
Trong một lần hắn đang dán túi như vậy, Len tiến đến đống túi ni-lông, nhấc lên một cuộn hỏi hắn và Ngọc với vẻ vô tư nhất đời:
- Cái này bán tốt lắm. Sao anh chị không bán đi mấy bó?
Hắn cười ngượng nghịu, hắn thấy Len đang cho rằng hắn là một tên ăn cắp. Len tròn mắt nhìn hắn:
- ở hàng người ta bán lẻ mỗi túi năm hào đấy Mình giao cho họ rẻ cũng được ba hào.
Lúc đó Ngọc cũng ở nhà. Ngọc bảo:
- Chị sợ rồi thiếu...
Ngọc cũng cười ngượng nghịu. Như bị bắt quả tang mình đang ăn cắp. Chưa bao giờ họ bàn với nhau chuyện ăn cắp như vậy. Điều Ngọc lo hắn lại không lo. Hắn cố gắng để giải đáp cho Ngọc:
- Thiếu thì không sợ.
Hắn nhìn những bó túi ni-lông to bằng nửa cái bàn một:
Cắt đôi bó này ra. Một trăm thành hai trăm ngay. Len bảo:
- Họ chỉ đếm bó chứ không cân, phải không chị? Mỗi bó một trăm túi, hả anh?
Len cứ nói, hỏi và đếm thử một bó. Rồi Len chọn ra một bó đẹp: loại túi mỏng, 35 x 50 (xăng-ti-mét). Len đếm lại:
- Họ đếm đúng lắm. Chẵn một trăm đấy, anh chị ạ! Anh chị cho em xin một cái túi lẻ nữa nào.
Hắn đưa cho Len mấy túi lẻ nữa. Thực sự hắn không quan tâm nhiều đến việè Len bán hộ hắn. Cái trò ăn cắp thế này không bền. Một bữa ăn cắp để sống. Mười bữa khác không ăn cắp được thì sao? Hắn không sống bằng nghề ăn cắp. Hắn muốn sống bằng sức lao động của hắn, dù có kham khổ, nhưng được đảm bảo bằng công việc làm, bằng mồ hôi của hắn. Điều đó mới bền, mới quan trọng. ăn cắp ở trong tù thì được. Vì đó là phản kháng, là giành lại cái mình bị tước đoạt. Là biện pháp tồn tại, là để có những hồi hộp lo âu, niềm vui mà quên đi thời gian tra tấn, mà vượt được từng ngày. Nhưng ở cuộc đời, ở ngoài xã hội thì không thể ăn cắp mà sống. Nhục. Xấu xa. Đê tiện. Và không ai có thể sống cả đời bằng của ăn cắp.
Hắn không ngờ cuộc đời hắn sau này gắn chặt với việc ăn cắp. Không ăn cắp trắng trợn, không thò tay móc túi người khác. Không phá kho nhà nước.
Nhưng vẫn là ăn cắp. Bởi vì không ăn cắp khó mà tồn tại Không phải chỉ mình hắn. Chung quanh hắn bao nhiêu người ăn cắp. ăn cắp bí mật. ăn cắp công khai. Bàn nhau ăn cắp. Khoe của ăn cắp. Chia nhau của ăn cắp. ăn cắp mọi thứ có thể ăn cắp được. Phá một triệu chỉ để ăn cắp một hào. Ai không có gì ăn cắp thì ăn cắp thời gian. Và nếu thời gian của mình chứ không phải của nhà nước, thì đành rơi vào số phận hẩm hiu, đói nghèo, do đó đáng khinh bỉ: Làm người lương thiện. Có biết bao loại ăn cắp, bao kiểu ăn cắp. ăn cắp bẩn thỉu. ăn cắp sang trọng. ăn cắp trèo tường khoét ngạch. ăn cắp đi xe hơi, bệ vệ, đĩnh đạc, đường hoàng. ăn cắp kiểu gà què. Kiểu chuột. Kiểu mèo. Kiểu sói. Kiểu hổ. ăn cắp để sống, để đỡ đói. ăn cắp để làm giàu. Để ngoi lên một địa vị cao sang. Càng ăn cắp càng giàu có, càng được mọi người kính trọng. Tệ hại nhất là ăn cắp, nhưng vẫn dạy dỗ mọi người chống ăn cắp, vẫn thuyết giảng lý tưởng một cách rất thành thật, thiết tha.
Nhưng đó chỉ là số ít (tính theo tỷ lệ phần trăm, chứ con số tuyệt đối thì nhiều lắm lắm). Phần lớn ăn cắp để tồn tại. ăn cắp, mà không muốn mình phải ăn cắp. Như hắn. Hắn ăn cắp, mà ý thức được mình đang làm một việc đau khổ. Mà mong muốn, mà khao khát chấm dứt được cảnh này. Hắn muốn làm người lương thiện. Ai? Ai đã nói như thế nhỉ? Chí Phèo! Chí Phèo thét lên với Bá Kiến:
“Tao muốn làm ngttời lương thiện”. Cả nước này có bao nhiêu người muốn được như Chí Phèo, thét lên như thế. Cả nước này có bao nhiêu người muốn kêu to: “Tôi muốn làm người lương thiện. “

*
* *
Cái khoản ba mươi đồng, tiền bán túi ni-lông Len và Giang đưa như một quả tạ ném vào cán cân kinh tế nhà hắn. Ngọc đi đến một quyết định táo bạo: Tổ chức một bữa liên hoan nhân dịp Giang về. Tất nhiên phải có cả bà Phê Đô Thớt. Chỉ bỏ ra dăm đồng thôi là có được một bữa kha khá.
Len nhận lời, nhưng không đến. Lũ trẻ hỏi Giang:
- Cô Len đâu, hả cậu Giang?
Chúng không gọi Giang bằng chú. Chúng gọi Giang bằng cậu. Giang muốn thế. Gọi bằng chú nó thường, nó nhàm. Gọi bằng cậu nghe thân hơn. Giang bảo. “Cậu là em mẹ. Cậu Giang có họ về đằng mẹ Ngọc”.
Ngọc cũng hẫng. Ngọc bảo Giang:
- Hôm nào cô ấy đến đây, chị phải mắng cho một trận.
Giang cười:
- Kệ nó. Hôm nay nó phải về Nam Định.
- Về Nam Định làm gì?
- Bà cô ông bác gì ốm.
Bữa ăn không phải vì thế mà kém vui. Một đĩa thịt gà mua chợ. Một ít thịt lợn (phiếu trẻ em của thằng Dương) làm chả nem. Và bún. Thằng Dương cả thèm chóng chán. Nó giành hai cái gọng. Mặc cho thằng Hiệp tán tỉnh:
- Xương đấy. Cho anh một cái. Em ăn sao hết hai cái. Đi! Dương!
Hắn đã ăn mấy bữa cơm khách: ở nhà anh chị Thân, nhà Bình, nhà anh út thợ gò, em nhận của anh Chân... Ngon. Cá chép hấp. Tôm rán. Mực xào... Thịt gà thịt lợn... Mỗi bữa ăn một thực đơn khác nhau, nhưng cùng có một điểm giống nhau: Không ai hỏi hắn về chuyện hắn đi tù, vì sao hắn bị tù và hắn đã ở trại tù nào... Không ai đả động đến điều chí cốt khiến hắn phải đi xa gần năm năm và bây giờ trở về (do đó nên mới có bữa cơm vui này). Người ta lảng tránh, người ta không hỏi, người ta sợ cái đề tài cấm kỵ ấy. Phải. Đó là một đề tài cấm kỵ. Chính vì vậy mà bữa ăn ngon, đầm ấm, nhưng thiếu sự đồng cảm tinh thần.
Bữa ăn với Giang thì khác. Dù không nói đến kỷ niệm tù vì có lũ trẻ, hắn và Giang vẫn hoàn toàn đồng cảm.
Hai người bàn nhau cách kiếm sống. Giang định đi làm mộc. Cái nghề Giang học được ở trong tù.
Thế rồi Giang kể chuyện chị Giang. Chị Hiên đi buôn bột dong riềng. Lãi lắm. “Anh chưa gặp chị em. Chị em đẹp lắm. Không như em đâu”.
- Hay là anh em mình làm miến?
Đó chỉ là một câu hỏi vu vơ sau bữa ăn, nhưng rồi hoá ra thành sự thật. Thời gian đó làm miến đang phát tài. Nhiều người xây nhà.
Đã có những thuận lợi đầu tiên. Địa điểm, nhờ Phu, người bạn chuyên đi tiếp tế cho Giang. Nhà Phu dưới An Thái, chỗ hồ bơi đi vào. Phu có một mảnh vườn rộng, một căn nhà đã xây tường, nhưng chưa có mái. Giang đưa về nhà hắn một người tên là Ky, ở phố Huyền Trân, hình như do Len giới thiệu với Giang. Ky trông thấy hắn, mê tít:
- Anh Giang có nói với em: Anh em mình thành lập một tổ hợp tác làm miến Về mặt thủ tục anh lo. Tuy mới gặp anh, nhưng em thấy chị và các cháu thế này là em tin. Anh làm tổ trưởng rất tốt. Tuổi anh giao dịch rất đẹp. Với người trẻ cũng được. Với người già cũng được...
Sau này hắn mới biết Ky có nhà mặt đường, nhưng còn bố mẹ. Ky muốn tự lực. Nghề làm miến rõ ràng sống tốt. Nhất là Ky có hai thông tin “chính xác”: Chị Giang buôn bột dong riềng, hắn có một người em làm miến rất giỏi.
Điều thứ nhất đúng, nhưng điều thứ hai Ky bị lừa. Mà chẳng riêng Ky. Giang bị lừa. Hắn cũng bị lừa.
Chính hắn cũng tin rằng “em” hắn biết kỹ thuật miến. Đó là một người họ Đoàn, lớn tuổi hơn hắn, nhưng về vai vế trong làng, họ nội ngoại gần xa lại là em. Gọi hắn là bác. Hắn gọi là chú. Chú Mai. Chú Mai, một trong số ít ỏi người làng ra thăm hắn khi hắn đi tù về. Chú Mai đã từng đi bộ đội hồi kháng chiến chống Pháp, rồi đi dạy học. Và bị ta bắt ít ngày. Rồi được tha. Nhưng bị thải hồi. Dạo đó hắn cũng chẳng quan tâm đến những số phận như Mai. Hắn chỉ biết Mai về làng, làm bún nuôi lợn, con cái buôn gồng bán gánh, nay chợ này mai chợ khác. Đoàn Mai thăm hắn và rủ hắn đến một người bạn học của hắn: Huynh, giám đốc một Công ty xây dựng. Hắn cũng không hiểu vì sao, bằng những nguồn tin nào, Mai lại biết Huynh là bạn hắn. Thật là kỷ tài. Mai cả quyết:
- Nhưng có đúng Huynh cụt tay, Nguyễn Văn Huynh trước ở Uỷ ban kế hoạch, có vợ là bà Nguyên, mới li dị là bạn bác không nào?
Thế thì đúng rồi. Thế là Huynh và Nguyên đã li dị. Thời gian còn làm báo, hắn vẫn gặp Huynh và được Huynh rất tôn trọng. Tôn trọng về sức học. Tôn trọng về tài nàng. Đám cưới Huynh - Nguyên ở Hà Nội, hắn có tới dự. Nguyên, một cô gái xinh đẹp và cho tới năm nám trước vẫn còn là một thiếu phụ xinh đẹp, ăn mặc đúng thời trang.
Nhìn thấy hắn, giám đốc Huynh reo lên:
- Tuấn. Tớ chưa đến được, đừng chửi nhé.
Những người ngồi quanh thấy giám đốc nói với hắn như vậy, ngoái lại nhìn cả vào hắn. Hắn cảm thấy tự tin hơn. Hắn đã chuẩn bị sẵn thái độ. Nếu Huynh có lời nói hay cử chỉ gì trịch thượng hắn sẽ bỏ về ngay. Mai bấm tay hắn, vẻ tin tưởng. Huynh tiếp:
- Ông này là bạn học từ bé. Nay phó thường dân thôi. Nên càng quí. Chờ mình một tý được không? Huynh đứng lên đưa bao thuốc lá cho hắn.
Huynh xử dụng một bàn tay phải còn lại rất thành thạo. Vẫn cái kiểu vừa giữ bao diêm vừa bật diêm như thế. Một cánh tay áo rỗng nhét vào cạp quần như thế.
Huynh trở lại bàn làm việc. Bao nhiêu người xin chữ ký. Hợp đồng san nền. Xin nhượng lại xi-măng. Thanh toán thuyền cát. Ký quyết định biên chế chính thức cho những người hợp đồng. Duyệt giá chữa cần cẩu...
Huynh vừa giải quyết công việc, vừa nói to những lời giải thích: Tại sao được, tại sao không được. Vừa kêu ca chửi bới khâu cung cấp nguyên vật liệu, chửi bới cả một ông uỷ ban quan liêu nào đó. Hắn nghe thấy một người cười hề hề với giọng nịnh ra mặt:
- Thủ trưởng cứ như Phidel Castro ấy.
Cuối cùng chỉ còn bọn hắn.
- Lại đây. Uống nước. Sao? Ngọc có khoẻ không? Thời gian mày đi, tao đến nhà mày mấy lần, nhưng không gặp Ngọc. Mày vẫn khỏe đấy chứ? Trông thì sức khoẻ tốt đây. Đến chơi hay có việc gì? Nhiệt tình. Tốt. ủng hộ ngay khi biết lý do. Và cho qui cách. Nhưng lại nói thêm:
- Phải đi gặp trưởng phòng cung tiêu. Nó trực tiếp làm. Hay là thôi. Chờ một tý. Mình gọi điện cho nó. A lô, Thi đấy phải không? Kế hoạch cọc tre còn không nhỉ? Sao? Đủ rồi à? Phải chờ à? Mấy tháng nữa? Thế hả? ừ! ừ! Được!
Thế có nghĩa là không thành rồi. Mai rất tiếc. Hắn cũng không hỏi Mai vì sao Mai biết Huynh là bạn học với hắn. Chỉ riêng một điều ấy hắn đã tín nhiệm Mai. Hắn tâm sự với Mai về ý định làm miến của hắn. Mai cười thản nhiên:
- Tưởng gì chứ làm miến thì được. Tôi làm mãi rồi. Lập cả một tổ hợp tác bên Xuân Lãng. Nhưng kích rích quá, lại thôi. Tôi có thể giúp bác về kỹ thuật được. Không những thế tôi còn mua cho bác đủ số phên phơi với giá rẻ. Chỉ bằng nửa giá phên mới, ngay bên Xuân Lãng thôi.
Mai nói vậy. Cứ như chuyện dễ ợt. Hắn thấy só hắn thật may. Thế là cái ý làm miến càng được khẳng định. Hắn làm đơn lên tiểu khu, lên phòng thủ công. Tất nhiên cũng phải có dủ các mục: Tên tôi là... số nhà... hoàn cảnh gia đình khó khăn (cụ thể) xin được cấp phát đăng ký lập tổ hợp tác (phải là hợp tác, cá nhân thì đừng hòng.) Làm miến tại... Tôi hứa sẽ... v. v...
Hắn rất hồi hộp. Không biết người ta có duyệt đơn không? Hắn đã nhờ anh Thân và Bình tác động, nói hộ, nhưng cả hai không quen ai ở tiểu khu. Anh Thân bảo. “Cứ làm ở tiểu khu, xong lên phòng thủ công thì anh quen. Thằng Ngoãn, em ông Trần ấy mà”. Anh động viên hắn “họ cho chứ làm gì không cho, làm miến chứ làm gì đâu mà không được”. Hắn cũng nghĩ thế nhưng hắn vẫn lo. Cuộc đời chẳng biết đâu mà lường. Điều gì cũng có thể xảy ra.
Hắn làm đơn xin sản xuất ngay tại nhà mình cho đỡ lôi thôi. Sau khi có giấy phép rồi thì xin chuyển địa điểm sau. Ông tổ trưởng nhận đơn và hẹn hai hôm nữa hắn sang trụ sở. Hai ngày ấy thật là lâu. Ông tổ trưởng này hiền lành không như ông tổ trưởng trước. Có vẻ ông ấy không gây khó khăn gì đâu.
Ông tổ trưởng xác nhận hoàn cảnh hắn. Tiểu khu đồng ý. Ký tên. Đóng dấu. Với lời ghi: Không được làm ảnh hưởng đến trật tự trị an chung, bảo đảm sinh hoạt trong xóm... v. v...
Được giấy tờ, cả nhóm ba người (Bình bảo: “Ngõ ba nhà”) họp nhau ở nhà Giang và quyết định đẩy mạnh mọi hoạt động. Quyết tâm cao: Có miến bán vào dịp rằm tháng Bảy. Hôm ấy đã là mồng 2 tháng Bảy rồi. Chỉ còn hai tuần nữa thôi. Hắn, Giang và Ky ngồi ở phía sân sau, nơi trông ra dòng sông Nhị Bạc. Mẹ Giang, một bà già nhỏ, gầy đanh quánh, cứ mon men ra sân sau, lại bị Giang đuổi:
- Bà đi vào đi
Hắn biết mẹ Giang muốn nói với hắn mấy câu, nhờ hắn trông nom, dạy dỗ, kèm cặp Giang... Hắn biết mẹ Giang đặt rất nhiều tin tưởng vào hắn.
Hắn nhìn dòng sông xám trôi mải miết. Dòng sông loang loáng những gợn đèn từ các căn nhà hắt ra. Dòng sông hắn đã viết trong bản trường ca Đầu cầu, đang nằm ở một két hồ sơ tối tăm, bụi bặm, ẩm thấp của Sở Công an:
Em buông lưỡi câu không mồi
Bên dòng sông loang loáng dầu trôi
Không hay thuyền qua nước gợn
Không hay tàu qua nổi còi
Em chở con cá vàng vây đỏ
Giật lên cá biến thành hoàng tử
Như chuyện bà kể đêm xưa ôm bé vào lòng.
Đầu cầu.
Cổ tích thành dòng sông
Dòng sông thành cổ tích.

“Mình đã ca ngợi thực lòng. Mình đã tô hồng đến thế. Lãng mạn có cánh bay đến thế. Còn gì nữa nhỉ?
Ván gỗ trồi hàng đinh dài nhọn hoắt
Một chiếc thuyền tan bom nổ chậm đáy sông
Hết rồi, thuyền ơi!
Tiếng cười sang ngang
Bên bồi, bên lở
Đêm triều lên, nghe đại dương thở quanh ván gỗ
Ván gỗ trôi, mặt sóng đục ngầu
Nón bài thơ trôi băng băng vô tình hối hả
Nón tráng đẹp như gương mặt ai vừa đây đã không còn nữa
Nón che nghiêng gò má rám hồng
Chán mắt ai nhìn trái tim cuống quít
Nón trôi vun vút
Nón trôi từ đâu
Nón trôi về đâu
Nón trôi giữa những mố cầu
Bom chém dầy thân khắc nghiệt
Nón trôi nước xiết
Như mộ ai trôi
Trôi giữa dòng sông
Một cuộc sống không quen
Mà thân thuộc vô cùng.

Mình làm thơ cũng không đến nỗi nào. Mình đã làm những câu thơ ấy trên yên xe đạp. Trong lúc đợi phà. Trong những đêm một mình xa Ngọc, xa các con. Mấy năm rồi nhỉ?!
Hắn lại mộng du. Vì vậy Giang lại phải nhắc lại một lần nữa:
- Thế nhé. Mỗi người tạm đóng bảy yến . Ngày mai mang tiền đến anh Tuấn. Mua giấy dầu, mua luồng, đắp lò...
Bảy chục. Một món tiền to. Gần bằng cái cán sự bốn. Hơn lương hắn. Hắn chỉ cán ba thôi. Bảy chục.
Hắn đào đâu ra những bảy chục. Hắn nghĩ đến mấy bó túi ni-lông. Đã dán rồi, nhưng chưa giả hàng. Chưa xe xuống ông Quỳnh. Hắn yên tâm.
Hắn chọn ra được ba bó. Loại như Len đã bán lần trước. Hắn cắt những túi to, dày ra làm hai, dán lại một lần nữa, cho vẫn đủ số bó. Hắn đếm lại mỗi bó đúng một trăm túi. Nhưng bà phê Đô Thớt không đến. Bà Phê Đô Thớt có trục trặc gì với Giang. Hỏi Giang, Giang không nói.
Hắn phải mang đi bán. Bình bàn bán cho Thế, cái anh viết vàn không được đã chuyển sang nghề làm nhựa. Vợ Thế có một mẹt dép nhựa, túi ni-lông ở phố Ông ích Khiêm. Hắn cho cả ba bó vào trong một cái làn. Buổi trưa, hắn lò mò đến nhà Thế.
Thế khi đó còn đang ở trên gác, một căn gác hẹp. Thế đang nằm ngủ trên đi-văng. Hắn ngồi im lặng. Hắn biết mình đang làm phiền người khác. Giá như trước đây hắn khẽ hắng giọng, hay e hèm một tiếng và cười bảo Thế:
- Dậy đi. Ngủ thế trộm nó khiêng hết cũng chẳng biết đâu.
Và Thế choàng dậy, thấy hắn, hẳn Thế vui và niềm nở, chuyện như pháo nổ.
Bây giờ hắn ngồi im lặng nhìn Thế ngủ, ý thức được ràng mình đang quấy rầy người khác. Còn hơn thế. Hắn nhìn ba bó túi ni-lông trong làn mà nghĩ rằng hắn giống như một người đem cái tin đầu tiên của mình đến nhà riêng ông tổng biên tập báo uyên bác và từng trải. Giấc ngủ của Thế có vẻ mệt nhọc của người vật lộn với đời. Hắn đã nghe Bình nói: Thế nhờ Bình viết bài trên báo phê bình guốc nhựa, dép nhựa của hợp tác xã Bình Minh chất lượng xấu. (Hợp tác xã Bình Minh là Thế. Phải là một hợp tác xã mới được đăng ký sản xuất. Thế tổ chức một hợp tác xã mà thực chất là Thế và một số người làm thuê)
- Sao nó nhờ mày làm thế. Hàng bán cho ai được.
- Nó được miễn thuế mấy tháng. Nó bảo không bán được hàng vì bài báo.
Thế là bậc đàn anh trong ngành nhựa. Hẳn Thế sẽ giúp hắn trong lúc hoạn nạn này. Nhưng Thế vẫn ngủ. Hắn hy vọng Thế chỉ chợp mắt một lúc. Thế nằm trên đi-văng. Hắn ngắm cái quạt Marelli tuốc- năng hẳn hoi. Quay nhè nhẹ êm ru. Cần mẫn, tận tuỵ, im lặng làm phận sự và vững tin ở giá trị của mình. Hắn ngắm nồi miến gà ăn dở nguội tanh nguội ngắt, cái muôi cắm vào nồi, những sợi miến trương lên. Có cả lòng gà, và những miếng mộc nhĩ thái nhỏ đen đen. Hắn nhìn nồi miến gà ăn dở như nhìn biểu tượng của thiên đường sung túc, một sự thừa mứa, một viễn ảnh ngoài tầm tay, hắn không bao giờ dám nghĩ tới, dám ao ước. Hắn nghĩ đến vợ con, đến bát canh nấu muối trên mâm cơm nhà hắn. Hắn nghĩ đến cái quạt đi-na-mô xe đạp ở nhà Bình mà hắn vẫn thèm khát, đến những cái quạt nan phì phạch suốt đêm ở nhà hắn.
Hắn thở dài.
Không biết Thế còn ngủ đến bao giờ, nếu không có thằng con Thế đi đâu về chào hắn.
Thế tỉnh giấc, ngồi dậy, bảo:
- Sao không gọi tôi? Đến lâu chưa”
Hắn ngượng nghiụ, ấp úng mãi mới lôi ra một bó ni-lông, mặt đỏ gay vì xấu hổ, hình như cả nhục nhã nữa, vì nó tố cáo bước đường cùng của hắn và hắn là một tên ăn cắp.
-Bình nó bảo ông tiêu thụ hộ được cái này.
Thế đỡ lấy bó ni-lông ngắm nghía:
- Cái này không phải mình, mà là bà xã.
Hắn thở dài nghĩ đến cơ đận phải xách làn về:
- Bà ấy ngồi ở phố Ông ích Khiêm à?
- Không, bây giờ bà ấy ra cửa chợ. Tối mới ngồi ở Ông ích Khiêm.
Hắn trầm ngâm, không giấu được vẻ lo lắng, bồn chồn.
- Uống nước đi. Sao? Đã làm ăn gì chưa.
Hắn cười, đau khổ:
- Làm gia công mấy thứ cho công ty bà ấy, hết là nghỉ.
Thế thông cảm:
- Thôi, đưa cho mình cũng được.
Vẻ mặt hắn sáng lên, nhẹ nhõm lên, tươi tắn lên.
Thế nhìn vào cái làn:
- Còn nữa à?
- Ba bó cơ.
Hắn nói như người có lỗi. Thế giật mình trước tình thế khó khăn phức tạp ấy.
Hắn sợ hãi vội nói trước:
- Ông lấy được bao nhiêu thì lấy.
Thế thở dài như thấu hiểu trách nhiệm nạng nề của mình với bạn trong lúc bạn lâm vào bước đường cùng. Anh nhíu mày suy nghĩ rất lung:
- Tôi lấy cho ông hai bó. Mỗi bó hai nhăm đồng. Năm chục tất cả.
Thế đếm tiền. Hắn ngớ ra. Vì hắn tưởng mỗi bó ba chục. Len đã bảo bán lẻ những năm hào. Nhưng thôi. Cũng được. Biết bán ở đâu bây giờ. Mang ra chợ thì hắn không dám rồi.
Hắn cầm năm chục từ tay Thế. Thế bỗng lục lục tủ, miệng lẩm bẩm. “Xem còn tiền không, tôi lấy nốt cho ông, ông đỡ phải mang về. à còn đây! Xem nào. Còn hai chục. Hai chục, được không?”...
Hắn thở dài cám ơn Thế ra về. Thế dặn: Lần sau có cứ mang lên. Ba trăm chứ nữa cũng được. ăn xuống thang. Xong ba bó túi poliester. Bảy chục tất cả. Vừa một suất đóng cổ phần làm miến. Tuy khi đi, han và Ngọc đã tính được chín chục. Sẽ còn thừa hai chục để Ngọc chi tiêu. Hơi đau. Hơi hẫng vì mình đã tính trước. Đã lên kế hoạch. Đã vào sổ trong óc. Đã chắc chắn có chỗ dôi ra.. Nên mới buồn. Thế đúng là loại người như Mác nói, chỉ nghĩ đến lợi nhuận. Mọi tình cảm đều để lên cán cân lợi nhuận. Hắn oán và khinh Thế. Nhưng hắn lại nghĩ: Không có Thế hắn biết bán cho aì? Của ăn cắp được, tốt lắm rồi. Thế còn phải chi nhiều. Cống nhiều. Như cái mái ngói cho ngôi nhà của ông Tăng bên dưới nhà hắn. Luật đời như vậy. Trấn người này nộp người khác.
Giang, Ky đều có tiền góp đúng hạn. Ba người đi mua tre luồng, gác lên bốn bức tưởng làm mái, mua giấy dầu... Hắn đang cởi trần cưa cắt leo trèo thì thằng Hiệp đến. Đi theo thằng Hiệp là Đoàn Mai, người em họ, kỹ thuật viên làm miến đại tài của hắn. Mai sang nhà hắn, nghe Ngọc nói chuyện, vội bảo thằng Hiệp đưa đến. Nhìn tất cả công việc đang diễn ra với một tốc độ khẩn trương vui vẻ và tin tưởng, Mai sững người. Hắn reo lên:
- Chú Mai Chú thấy được không. Mặt bằng này phơi miến thì vô địch rồi còn gì.
Mai tần ngần nói khẽ:
- Tưởng nói thế thôi. Hoá ra làm ngay à?
Hắn biết có trục trặc gì rồi. Hắn kéo Mai đi uống nước chè ngoài quán. Thì ra Mai không biết làm miến, nhưng cái chỗ phên phơi Mai vẫn bảo đảm cho, giá rẻ thôi. “Họ đang làm, nhưng tôi lấy là họ phải nhượng lại. Dăm chục chiếc giá cũng không được lấy cao”.
Hắn “báo cáo”ngay với nhóm diễn biến ấy. Nhưng Giang bảo “không cần kỹ thuật, chỉ cần phên thôi”.
Hắn về quê gặp Mai. Và cùng Mai sang Xuân Lãng mua phên, chất lên xích-lô, chở qua bến Tắm, về nơi làm miến. Qua lần đi này, hắn hiểu sâu sắc rằng Mai là người nói phét. Đó là toàn bộ số phên của một người làm miến đã giải nghệ lâu rồi. Và đang cần bán. Không biết sao Mai hay nói rộng thế. Bố hắn biết chuyện cũng bảo:
- Cái thằng nói một tấc đến giời.
Khi còn là giáo viên Mai không mẵc chứng ấy. Bị bắt, rồi bị thải hồi, Mai mới sinh ra như vậy. Mãi sau hắn mới biết lí do Mai bị bắt. Mai bị nghi vấn nằm trong một tổ chức phản động. Cái tổ chức phản động ở làng Cầu này bị phát giác là do một ông công an ở Sở về tìm thấy mấy cải kíp mìn giấu trong gầu tát nước treo dưới bếp nhà một tên lính nguỵ. Từ đó lôi ra cả một tổ chức. Hàng chục. Hàng mấy chục. Có cả người họ hàng gần với Đoàn Mai. Mai bị quơ. Rồi được tha. Nhưng bị thải hồi, bị đuổi khỏi ngành giáo dực. Đó là thời gian xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Củng cố, gìn giữ hậu phương đang là vấn đề sống còn của cách mạng.
Người khám phá ra vụ án này từ chỗ không ai chú ý, bỗng được tín nhiệm, được cất nhắc. Một cái bàn đạp để ông ta đi lên. Trong tù hắn đọc báo thấy ông ta được tham gia phái đoàn hội nghị bốn bên ở Tân Sơn Nhất. Ông ta là tượng trưng cho ngành an ninh thành phố. Là sự sắc sảo chính trị, vững chắc như đá tảng về lập trường. (Chính sự vững chắc về lập trường đã quyết định tất cả). Là kiến thức rộng rãi, là nghiệp vụ siêu đẳng, là tinh thần cảnh giác cách mạng tuyệt vời. Là sự thông minh ửng xử không chê vào đâu được với bọn địch ở hội nghị bốn bên. Là niềm tự hào của thành phố, là vinh dự cho những ai quen ông hay chỉ được nói chuyện cùng ông, nói chuyện về ông. Ông là cánh tay phải của ông Trần.
Tên ông là Lê Cộng.
*
* *
Hệt như cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, khi bộ chỉ huy Cộng Hoà hay tin đối phương đã biết trước cuộc tiến công và đã đề phòng, lẽ ra họ phải dừng chiến dịch lại, nhưng không được nữa. Guồng máy đã khởi động rồi.
Chương trình làm miến của ba anh em cũng giống như vậy. Biết rằng không có người làm kỹ thuật, mà thời ấy kỹ thuật cũng là then chốt - nhưng không thể dừng được nữa. Mái nhà đã lợp. Bếp đã làm. Lò đã đắp. Chảo gang đã mua. Chậu hoà bột- một cái chậu nhôm to phế phẩm vì bị móp một chỗ do Thao mua hộ ở mậu dịch giá 25 đồng- chum ngâm bột. Điện đã mắc. Một cái giường và bộ ấm chén đặt trong căn nhà rộng, vừa lợp xong giấy dầu. Cửa sổ, cửa ra vào làm tạm bằng tre. Mấy cái đòn ngồi uống nước. Cái điếu cày... Và năm mươi cái phên phơi hắn đã xe về, tập kết về dựng ở tường khu vườn hoang. Lại cả một đống than to tướng.
Thế là nhẵn. Nhẵn cả hai trăm mốt của “ba anh thợ da thối”đang lăm le trở thành Gia Cát Lượng. Còn thiếu hai khoản quan trọng nhất. Hai khoản khổng lồ: Bột dong và máy thái. Ngày rằm tháng Bảy sắp tới nơi rồi. Chưa kể một điểm vô cùng quan trọng: kỹ thuật.
Giang báo một tin phấn khởi: Giang đã nói với chị Hiên, chị đồng ý bán chịu cho cả bọn một tạ bột dong.
Còn khó khăn về kỹ thuật thì thật không ai ngờ được người giải quyết lại là bà Phê Đô Thớt.
Len đến. Len và Giang làm như không trông thấy nhau. Len đứng nói chuyện với hắn. Giang bỏ đi nháo than. Len bảo: “Em lại nhà, chị bảo anh ở dưới này”. Khi biết cả bọn không biết kỹ thuật, Len nói:
- Hình như ngày mai các anh định nhóm lò phải không? Em thấy chị bảo thế. Chị đã đi xem ngày rồi. Dạo ấy hắn chưa tin điều Ngọc đã tin. Trên trốc cái tủ Bình đóng như quan tài dựng đứng, Ngọc đặt bàn thờ, ngày rằm, mùng một hương khói nghi ngút.
Đây lại là một nét mới nữa ở Ngọc, cùng với cái nét sợ hãi, lo lắng về bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra mà hắn đã biết từ ngày hắn được tha về.
Ky bảo:
- Mai mồng mười tốt ngày. Mà cũng phải làm mới có miến bán vào rằm chứ. Chưa có máy cắt thì đi thuê.
- Còn bột? - Hắn nêu một trở ngại - Chưa có bột, chị Hiên đã về đâu?
Len bảo:
- Chị Hiên chiều nay ở Nam Định về. Anh bảo anh Giang về nói chị Hiên để lại cho hai bao. Ngâm bột đi, em tráng cho.
Hắn ngạc nhiên:
- Em tráng được không? Em biết tráng đấy à? -
Hắn mừng quá gọi:
- Giang ơi
Kỳ Trước | Kỳ Sau

 


Ý Kiến Bạn Ðọc
 
Tên